Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 15-05-2025 1:14pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Liên Mỹ Dinh – IVFMD SIH Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn

Giới thiệu
Dù là vì lý do xã hội, tài chính hay sức khỏe, độ tuổi mà mọi người sinh con đầu lòng đang ngày càng tăng nhưng xu hướng này có thể đi ngược lại khả năng sinh sản của họ. Một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra thất bại làm tổ và sảy thai trong IVF là do lệch bội nhiễm sắc thể (NST) có nguồn gốc từ noãn liên quan đến tuổi tác. Lệch bội NST là một nguyên nhân gây vô sinh liên quan đến tuổi tác có thể gây áp lực lên những BN mong muốn mang thai vào một thời điểm nhất định trong cuộc đời họ. Từ lý do trên, trữ noãn xã hội ngày càng trở nên phổ biến hiện nay. Sự phát triển của các quy trình thủy tinh hóa và rã đông mang đến tỷ lệ sống sót của noãn cao với nhiều công bố báo cáo tỷ lệ trên 90% và tỷ lệ thụ tinh và tạo phôi nang tương đương giữa noãn tươi và noãn đã thủy tinh hóa. Không có sự khác biệt về động học hình thái và tỷ lệ lệch bội NST giữa phôi từ noãn tươi hoặc từ noãn đã thủy tinh hóa. Nghiên cứu với cỡ mẫu lớn vào năm 2021 của Hiệp hội Công nghệ hỗ trợ sinh sản (Society for Assisted Reproductive Technology – SART) cho thấy tỷ lệ mang thai và tỷ lệ trẻ sinh sống (Live Birth Rate - LBR) giảm khi tuổi mẹ tại thời điểm trữ đông tăng lên, trong khi số lượng noãn rã đông để đạt được một ca sinh sống tăng lên đáng kể theo tuổi. Với bằng chứng cho thấy LBR có tương quan chặt chẽ với tuổi noãn,vì thế nên, phụ nữ nên cân nhắc trữ đông noãn trước 35 tuổi. Trữ đông noãn ở độ tuổi sau 40 sẽ đem đến kết quả kém và không có ca sinh sống nào ở bệnh nhân trên 40 tuổi. Nghiên cứu quan sát này nhằm mục đích báo cáo kết quả lâm sàng của tất cả các chu kỳ rã noãn tự thân được thực hiện tại trung tâm của các tác giả, những người đã quay lại điều trị từ năm 2015 đến 2023 sau các chu kỳ trữ đông noãn ban đầu được thực hiện từ năm 2008 đến 2022. Nghiên cứu này phân tích các kết quả lâm sàng từ cả chuyển phôi tươi và các chu kỳ trữ toàn bộ phôi (Freeze All Embryo - FAE) với các lần chuyển phôi đông lạnh (frozen embryo transfer - FET) tiếp theo có hoặc không có PGT-A.

Vật liệu và phương pháp
Đây là nghiên cứu quan sát hồi cứu trên 332 chu kỳ sử dụng noãn tự thân đã được thủy tinh hóa và rã đông ở 299 bệnh nhân. Tất cả BN quay lại để rã noãn của họ từ năm 2015 đến 2023 (với các mục đích trữ đông ban đầu: xã hội, lâm sàng hoặc ngẫu nhiên) trong khoảng thời gian trữ đông từ năm 2008 đến 2022 đều được đưa vào nghiên cứu. Tiêu chí loại trừ: các chu kỳ hiến noãn, các chu kỳ hiến khoảng một nửa số noãn cho ngân hàng noãn hoặc trữ đông một nửa. Đối với trường hợp có thực hiện sinh thiết phôi phát hiện thể lệch bội (Preimplantation Genetic Testing Annguyên bộiy- PGT-A), sinh thiết được thực hiện vào ngày 5 hoặc 6 của quá trình nuôi cấy phôi. Phôi nguyên bội được ưu tiên chuyển, nhưng trong trường hợp bệnh nhân có nhiều hơn một phôi nguyên bội, lựa phôi chuyển sẽ ưu tiên theo hình thái/động học hình thái.

Kết quả
Tổng cộng có 3328 chu kỳ thủy tinh hóa noãn tự chọn đã được thực hiện ở 2280 bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân quay lại sử dụng noãn là 14% (299/2171). Tuổi trung bình là 37,6 tuổi tại thời điểm trữ đông và 40 tuổi tại thời điểm rã đông. Đã ghi nhận được 93 ca mang thai lâm sàng và 77 ca sinh em bé sống khỏe mạnh. Tỷ lệ trẻ sinh sống là 24% (39/163) trên mỗi lần chuyển phôi tươi và 17% (39/227) trên mỗi phôi được chuyển. Phân tầng theo tuổi tại thời điểm trữ đông, LBR trên mỗi phôi được chuyển là 26% (12/47) ở những người tham gia dưới 35 tuổi, 20% (24/118) ở những người 35-39 tuổi và 5% (3/62) ở những người trên 40 tuổi. LBR của chu kỳ FET đạt 30% (24/80) trên mỗi lần chuyển phôi và 27% (24/90) trên mỗi phôi được chuyển. Bên cạnh đó, thực hiện PGT-A để chọn phôi chuyển đã tăng gấp đôi LBR so với FET từ phôi không thực hiện PGT-A sau một lần chuyển (40% so với 21%).

Thảo luận
Trong báo cáo lớn nhất ở Anh cho đến nay, các phát hiện cho thấy BN ở mọi nhóm tuổi tại thời điểm trữ đông đều có thể đạt được LBR chấp nhận được thông qua các chu kỳ thủy tinh hóa-rã đông noãn tự thân. Những kết quả này cho thấy tính dự đoán được trong các mô hình trữ đông và sử dụng noãn tự chọn. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng số lượng noãn MII được rã đông có khả năng dự đoán các ca sinh sống trong các chu kỳ rã đông, với số lượng noãn cần càng tăng hơn khi tuổi tại thời điểm trữ đông của phụ nữ cao. Nghiên cứu tại các phòng thí nghiệm lâu đời cho thấy LBR đạt được có thể so sánh với LBR từ noãn tươi và khi điều trị ở độ tuổi dưới 35, LBR đạt tương đương với noãn hiến tặng. Vì thế nên, độ tuổi tốt nhất để phụ nữ thực hiện trữ đông noãn là 35 tuổi trở xuống. Tuy nhiên, các nhà khoa học hiện tại báo cáo rằng FET từ chu kỳ FAE đã thay đổi đáng kể LBR ở nhóm tuổi trên 40, mà yếu tố có khả năng đóng góp là PGT-A. Một số hạn chế chính của nghiên cứu có thể kể đến: Không  so sánh với noãn tươi, quy mô chưa đủ lớn đưa ra các kết luận chắc chắn. Bên cạnh đó, một vài điểm mạnh của nghiên cứu là: đây là báo cáo đơn trung tâm lớn nhất ở Anh về các chu kỳ rã noãn tự thân cho đến nay, quy trình đều được tiêu chuẩn hóa trong một phòng thí nghiệm duy nhất, việc sử dụng cả dữ liệu quốc gia và dữ liệu từ các tài liệu hiện có so sánh noãn tươi với noãn đông lạnh cung cấp đủ bối cảnh cho các phát hiện của nghiên cứu này. Cuối cùng, đây là nghiên cứu đầu tiên chứng minh LBR có khả năng chấp nhận được từ noãn được trữ đông ở độ tuổi trên 40.

Kết luận
Tóm lại, việc thủy tinh hóa và rã đông noãn tự thân có thể cung cấp một phương tiện đáng tin cậy để phụ nữ đạt được một ca sinh sống vào thời điểm họ lựa chọn. Với sự nhất quán của kết quả, việc đánh giá tuổi, dự trữ buồng trứng và số lượng noãn có thể giúp dự đoán các kết quả tiềm năng của điều trị. Mặc dù kết quả tương đương với mức trung bình quốc gia đối với IVF chu kỳ tươi, nhưng vẫn cần các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên quy mô lớn hơn nữa để chứng minh đầy đủ hiệu quả của noãn tự thân đã được thủy tinh hóa-rã đông so với noãn tươi.
 
Nguồn: Garratt, J., Shah, T., Mclaughlin, A., Al-Hashimi, B., Macklon, N., Linara-Demakakou, E., & Ahuja, K. K. (2025). Clinical outcomes of vitrified-warmed autologous oocyte cycles with 15-year follow-up at a single UK centre: consistent and predictable results. Reproductive BioMedicine Online50(1), 104376.


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK